Một sự kiện thực sự ý nghĩa với giới khoa học – công nghệ, đồng thời mang giá trị tham chiếu lớn cho tăng trưởng, phát triển trong kỷ nguyên 4.0 của đất nước là theo Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2019 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới mới đây, Việt Nam tăng 3 bậc lên vị trí 42/129 quốc gia/nền kinh tế (vị trí năm 2018 là 45/126). Như vậy, Việt Nam vươn lên đứng đầu trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp; thứ ba trong ASEAN, sau Singapore và Malaysia.

Vì sao lại nói những chỉ số nêu trên có ý nghĩa như “sự kiện”?

Đổi mới sáng tạo (innovation), theo Luật Khoa học và công nghệ, là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa. Trên phạm vi toàn cầu, trong kỷ nguyên của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đổi mới sáng tạo đóng vai trò cốt lõi cho tăng trưởng, trở thành động lực cho con đường vươn tới văn minh, thịnh vượng.

Từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng vấn đề đổi mới sáng tạo. Ở cấp độ vĩ mô, trong quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới sáng tạo chính là một thành tố quan trọng. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: Nhanh chóng hình thành một số cơ sở nghiên cứu – ứng dụng mạnh, gắn với các doanh nghiệp chủ lực, đủ sức tiếp thu, cải tiến và sáng tạo công nghệ mới. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi mới công nghệ.

Cụ thể hóa thêm một bước, Nghị quyết số 23-NQ/TƯ, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ: Xây dựng chính sách đột phá tạo lập môi trường khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Triển khai đồng bộ và quyết liệt các đề án, chương trình hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia.

Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Trong đó, mục tiêu nâng xếp hạng đổi mới sáng tạo với từng chỉ tiêu, theo lộ trình, được đặt ra.

Tiếp đến, dự hội nghị “Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo – Một trụ cột cho phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam” diễn ra trung tuần tháng 5-2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có chỉ đạo sâu sát, “đặt hàng” các cơ quan hữu quan những phần việc cụ thể.

Tuy nhiên, đổi mới sáng tạo chưa bao giờ là con đường bằng phẳng. “Rào cản” nằm ở ngay nhận thức của không ít cấp, ngành, địa phương và sau đó là cơ chế, chính sách (chưa đồng bộ). Khó khăn khác là trình độ khoa học – công nghệ và vốn đầu tư.

Cụ thể hơn nữa: Yêu cầu hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với doanh nghiệp là trung tâm, gắn kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp; chính sách khuyến khích và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp; thúc đẩy liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước; tập trung phát triển sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao để hình thành các ngành nghề mới và sản phẩm mới, giá trị gia tăng cao, nhất là lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh… đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.

Vì thế, như người đứng đầu Chính phủ đã đánh giá: Năng lực khoa học, công nghệ, sự đổi mới sáng tạo của chúng ta còn hạn chế và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, manh mún.

Ví dụ đáng để nhìn vào và cũng dễ nhận thấy nhất là ở phạm vi doanh nghiệp. Khi đổi mới sáng tạo không theo kịp yêu cầu phát triển, Yahoo giờ chỉ còn là cái bóng nhạt nhòa phía sau Google; những thương hiệu điện thoại di động đình đám một thời như Sony, Nokia… nay nhường chỗ cho sự lên ngôi của Apple, Samsung…

Sự phát triển của những “ông lớn” công nghệ mà lợi ích thuần kinh tế mang lại của Facebook, Twitter, Baidu… – cũng như ví dụ kể trên – không gì khác, gắn liền với đổi mới sáng tạo. Ở bình diện quốc gia, như chúng ta đã thấy, đổi mới sáng tạo thực sự là hạt nhân mang lại thịnh vượng, vị thế của nhiều nước.

Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo là yêu cầu không thể đảo ngược. Trong khi Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ”, phần việc còn lại thuộc về đơn vị, tổ chức khoa học – công nghệ và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng, người dân nói chung. Chính sự “đổi mới sáng tạo” trong hoạt động đầu tư cho đổi mới sáng tạo là “chìa khóa” mở ra những cánh cửa im lìm cản trở quá trình này. Ở đó, những thử nghiệm, “giải pháp không theo khuôn mẫu”, mô hình khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đều đã, đang và tiếp tục được khuyến khích, hỗ trợ.

“Nắm trong tay” nguồn lực đổi mới sáng tạo, chúng ta sẽ có thêm một bước đột phá trong phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Trường Đại học Bách Khoa Tp.Hồ Chí Minh, Bộ Khoa Học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức (BMWi) (gọi tắt là Chương trình ZIM) tổ chức Hội thảo giới thiệu chương trình đổi mới sáng tạo dành cho các tổ chức KH&CN và Doanh nghiệp vừa và nhỏ vào ngày 30/5/2019. Hội thảo nhằm giới thiệu và hướng dẫn về quy trình xét duyệt, cơ chế tài chính, phương thức tham gia, chách thức hỗ trợ kết nối các nhà khoa học và doanh nghiệp hai nước.

Thời gian qua, Việt Nam và Đức đã và đang chứng kiến rất nhiều thành tựu hợp tác trong lĩnh vực KH&CN, đổi mới sáng tạo thông qua các chương trình hợp tác nghiên cứu chung như: Chương trình y tế và phát triển đô thị bền vững, Chương trình kinh tế sinh học, Chương trình CLIENT I & II (đối tác quốc tế về nghiên cứu phát triển bền vững hợp tác với Bộ Nghiên cứu và giáo dục Đức), Chương trình đổi mới sáng tạo dành cho các tổ chức KH&CN phối hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp tác với Bộ Kinh tế và Năng lượng Đức (gọi tắt là chương trình ZIM).

Thông qua việc triển khai các chương trình này, nhiều tổ chức KH&CN Việt Nam đã hợp tác với các đối tác mạnh của Đức để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu chung tập trung vào hỗ trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề cấp bách liên quan đến y tế, sức khoẻ, môi trường, các  vấn đề về biến đổi khí hậu và chuyển giao nhnxg công nghệ tiên tiến vào Việt Nam đáp ứng được nhu cầu trong nước.

Phát biểu tại hội thảo, ông Phạm Xuân Đà, Cục trưởng Cục công tác phía Nam Bộ KH&CN cho biết, với nỗ lực của hai quốc gia, thời gian qua những lĩnh vực công nghệ tiên tiến đang dần được chuyển giao tại Việt Nam, đó cũng là điều kiện để Việt Nam thực hiện cuộc cách mạng 4.0. Đồng thời, tạo điều kiện cho các nhà khoa học và doanh nghiệp vừa và nhỏ hai nước có điều kiện hợp tác cùng phát triển.

Chương trình có sự tham gia của Ông Felix Richter, Đại diện Cơ quan Quản lý dự án của Bộ Kinh tế và Năng lượng Đức. Ông Felix Richter cho biết, Đức không yêu cầu đơn vị tham gia dự án phải có tổ chức KH&CN chủ trì mà các đơn vị tham gia phải có đủ số lượng người được đào tạo, tâm huyết với các nghiên cứu của mình để có thể theo đuổi đến hết quá trình nghiên cứu, thực hiện dự án. “Sản phẩm có phải tính mới, công nghệ mới hoặc những phát minh, sáng chế có khả năng thương mại hóa. Sáng kiến hoặc quy trình công nghệ, sản xuất cải tiến được kế thừa từ kết quả nghiên cứu trước đó cũng được xem xét hỗ trợ” – ông Felix Richter nhấn mạnh.

Đại diện phía Việt Nam, bà Hoàng Hiền Hậu – Vụ Hợp tác quốc tế thông tin ngoài những yêu cầu chung về phía Đức, phía Việt Nam cũng có một số yêu cầu riêng như Hồ sơ đề xuất tham gia gồm đề cương theo mẫu 01 Thông tư 12/2014/TT-BKHCN ngày 30/5/2014 và công văn đề xuất của Bộ chủ quản gửi Bộ KH&CN. Quy trình xét duyệt hồ sơ cũng được tuân thủ theo thông tư này. Các đơn vị khi gửi hồ sơ đề xuất xét duyệt cần gửi đến cả hai cho Bộ Kinh tế và Năng lượng Liêng bang Đức và Bộ KH&CN Việt Nam. Dự án tham gia Chương trình ZIM có thể được Đức xét duyệt tài trợ kinh phí 100% hoặc được cả Việt Nam hoặc Đức hỗ trợ. Tuy nhiên, kinh phí thực hiện dự án về phía đối tác phải đạt tối thiểu 40% tổng kinh phí thực hiện nhiệm vụ, nghĩa là kinh phí từ Việt Nam cấp không được quá 1,5 lần kinh phí từ phía Đức cấp.

Ông Marko Walde, Trưởng đại diện Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam cho biết, chương trình hợp tác này rất có nghĩa nhằm kết nối hợp tác các nhà khoa học và doanh nghiệp vừa và nhỏ của hai nước. Mục tiêu của chương trình nhằm tài trợ cho các nhiệm vụ nghiên cứu chung hướng tới thương mại hoá kết quả nghiên cứu, vì vậy các tổ chức KH&CN cần hợp tác, liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp để nghiên cứu hoàn thiện công nghệ nhằm hướng tới thương mại hoá sản phẩm.

Tại Hội thảo, nhiều ý kiến của đại biểu cho rằng, không cần thiết phải có công văn đề xuất của Bộ chủ quản; rút ngắn thời gian xét duyệt dự án từ phía Việt Nam (từ 6 -8 tháng), trong khi phía Đức chỉ từ 3 – 4 tháng; đảm bảo công bằng về sở hữu trí tuệ;… Đại diện Vụ HTQT cho biết, do việc nộp, quy trình xét duyệt hồ sơ đều phải theo Thông tư 12/2014/TT-BKHCN nên trước mắt các vấn đề trên chưa được tháo gỡ. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi thông tư này được sửa đổi, Bộ KH&CN sẽ xem xét việc bỏ quy định xác nhận của Bộ chủ quản. Ngoài ra, khi thực hiện dự án, hai bên đều ký thỏa thuận hợp tác trong đó có phần về sở hữu trí tuệ. Sản phẩm dự án đều đồng sở hữu, nên hai bên cần trao đổi, thỏa thuận đối với từng sản phẩm cụ thể về vấn đề này.

Phòng HTPT – Cục công tác phía Nam, Bộ KH&CN

Trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh “KOREAN – ASEAN” tại Busan – Hàn Quốc, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã chủ trì và chứng kiến Lễ ký biên bản hợp tác giữa Cục Công tác phía Nam (CPN) do Cục trưởng Phạm Xuân Đà đại diện và Busan Techno Park, Hàn Quốc do ông Kim Young Boo Giám đốc điều hành đại diện. Mục đích của Bản Ghi nhớ nhằm thúc đẩy thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến giữa Khu vực phía Nam Việt Nam và Tp. Busan, Hàn quốc.

Chứng kiến Lễ ký, phía Việt Nam có Ông Lưu Hoàng Long – Q. Trưởng ban Quản lý Khu công nghệ cao (CNC) Hoà Lạc; Bà Lê Thị Việt Lâm – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế; Bà Đỗ Thị Bích Ngọc – Tham tán, Trưởng văn phòng KH&CH tại Seoul, Hàn Quốc; Ông Nguyễn Văn Thưởng – Bí thư thứ nhất, Văn phòng KH&CN tại Seoul, Hàn Quốc; Ông Hoàng Quốc Đạt – Bí thư thứ ba, Văn phòng KH&CN tại Seoul, Hàn Quốc.

Phát biểu tại buổi Lễ, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đánh giá cao năng lực và thành tựu của Khu CNC Busan Hàn Quốc, và đề nghị hai bên sau lễ ký này cần sớm có kế hoạch, chương trình hợp tác cụ thể, có hiệu quả và lợi ích cả hai bên. Về phía Việt Nam, Bộ sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để CPN triển khai tốt bản hợp tác ngày hôm nay. Chủ tịch Khu công nghệ cao Busan ông Choi Jong Yeol bày tỏ sự trân trọng và đặc biệt cảm ơn Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã dành thời gian quý báu tham dự Lễ ký Bản ghi nhớ hôm nay. Ông báo cáo và hứa với Bộ trưởng sẽ đặc biệt quan tâm đến các nội dung của bản ghi nhớ hôm nay, nhiều nội dung đã có dự án cụ thể sẽ sớm báo cáo với Bộ trưởng để được triển khai.

Ông Phạm Xuân Đà cho biết, Bản ghi nhớ sẽ tạo tiền đề cho các hoạt động phối hợp, tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ tiên tiến giữa hai bên; Thúc đẩy kết nối cung – cầu công nghệ giữa các doanh nghiệp hai nước; Hỗ trợ các hoạt động hợp tác nghiên cứu phát triển chung; Hỗ trợ các hoạt động thương mại hóa sản phẩm, công nghệ và các kết quả nghiên cứu; Tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi chuyên gia cũng như các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo giữa hai bên.

Thông qua Bản ghi nhớ, Cục Công tác phía Nam kỳ vọng sẽ triển khai mạnh hơn các hoạt động hợp tác quốc tế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao theo phân cấp của Bộ trưởng, tăng cường hoạt động quản lý khoa học và công nghệ ở khu vực phía Nam./

Những năm gần đây, thị trường bất động sản luôn tiềm ẩn những diễn biến khó lường, đã khiến không ít doanh nghiệp ngành xây dựng đối mặt với khó khăn, thách thức đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây không nung (VLXKN). Phát triển xanh, bền vững và thân thiện môi trường là xu hướng tất yếu mà ngành xây dựng hướng tới. Theo đó, việc sử dụng VLXKN để từng bước thay thế gạch đất sét nung là giải pháp tối ưu khi hạn chế sử dụng đất sét và than, hai nguồn tài nguyên không tái tạo, góp phần bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Công nghệ sản xuất VLXKN cũng tận dụng nguồn phế thải từ các ngành công nghiệp như tro, xỉ, mạt đá… để tạo ra các sản phẩm hữu ích, nhờ vậy góp phần giảm lượng lớn chất thải rắn công nghiệp.

 

Đoàn cán bộ và chuyên gia Ban Quản lý Dự án Tăng cường sản xuất và sử dụng gạch không nung tại Việt Nam tham quan dây chuyển sản xuất VLXKN tại Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Toàn Cầu

Ông Trần Thanh Minh – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Toàn Cầu – một trong những tập đoàn hàng đầu sản xuất VLXKN cho biết, tại các nước phát triển sản phẩm xanh trong xây dựng được đặc biệt quan tâm. Ngành VLXKN tại các nước này phát triển trước chúng ta cả nửa thế kỷ. Do vậy, từ năm 2010, Toàn Cầu đã đầu tư nhà máy sản xuất gạch không nung có công suất 50 triệu viên/năm tại khu công nghiệp Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Ngoài công nghệ hiện đại, nhà máy này sở hữu lợi thế nằm rất gần mỏ Bazan và gần trung tâm Hà Nội, một thị trường “nóng” bậc nhất tại Việt Nam. Sau nhiều năm nghiên cứu, Toàn Cầu đã cho ra thị trường dòng sản phẩm phù hợp với điều kiện thi công và khí hậu Việt Nam, giúp mang lại giá trị về kinh tế và môi trường cho các dự án xây dựng tại thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc… Tuy nhiên, gạch không nung là sản phẩm mới, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu và phát triển thị trường, do đó, để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ loại sản phẩm này, bên cạnh các cơ chế, chính sách ưu đãi của nhà nước thì việc tuyên truyền, quảng bá sản phẩm này cần phải có tính chiến lược nhằm thay đổi thói quen sử dụng gạch đỏ truyền thống.

Cùng quan điểm nêu trên, ông Đào Anh Đức – Giám đốc Công ty TNHH MTV Vật liệu không nung Lâm Việt (Phú Thọ) cho rằng, hiện nay vẫn còn nhiều lò gạch nung truyền thống còn hoạt động, thậm chí còn được mở rộng. Do đó, việc sản xuất và tiêu thụ gạch không nung nói riêng, VLXKN nói chung còn gặp nhiều khó khăn. Ông Đào Anh Đức khẳng định, để các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh VLXKN phát triển, Nhà nước và các bộ/ngành cần tăng cường rà soát, kiểm tra việc thực hiện Quyết định 567/QÐ-TTg, Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng VLXKN và hạn chế sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung; các thông tư như 09/2012/TT-BXD về quy định sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng…; đồng thời sẽ siết chặt chế tài xử lý các loại vật liệu đất sét nung truyền thống, nhằm tránh gia tăng áp lực cạnh tranh và tiêu thụ trên thị trường.
Chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh VLXKN, các các bộ và chuyên gia của Ban Quản lý Dự án Tăng cường sản xuất và sử dụng gạch không nung ở Việt Nam cho rằng, trước tình hình nguồn cung của một số ngành vật liệu xây dựng đã dư thừa, cạnh tranh khốc liệt về thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp cần xem xét cẩn thận quy hoạch về phát triển vật liệu xây dựng trên địa bàn một cách hợp lý Bên cạnh đó, cần chú trọng tới việc đổi mới, ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Đặc biệt, bên cạnh sự hỗ trợ của Ban Quản lý Dự án về công tác lập kế hoạch, tập huấn, quảng bá… thì việc các doanh nghiệp việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về những lợi ích của VLXKN chính là nhu cầu bức thiết để các doanh nghiệp phát triển trong bối cảnh hiện nay.